Sáng kiến Kinh nghiệm dạy từ vựng môn Tiếng Anh 7

doc 14 trang sklop7 22/05/2024 1260
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến Kinh nghiệm dạy từ vựng môn Tiếng Anh 7", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến Kinh nghiệm dạy từ vựng môn Tiếng Anh 7

Sáng kiến Kinh nghiệm dạy từ vựng môn Tiếng Anh 7
 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
 ĐỀ TÀI:
“DẠY TỪ VỰNG MÔN TIẾNG ANH LỚP 7” - Khắc sâu vốn từ trong trí nhớ của học sinh thông qua các mẫu câu và qua những 
bài tập thực hành.
4. Hiệu quả áp dụng:
 - Các tiết học trở nên sôi nổi và sinh động hơn.
 - Học sinh đã thuộc các từ mới ngay tại lớp học.
 - Vốn từ vựng của các em tăng lên rõ rệt.
 - Các em học sinh yếu kém có thể sử dụng được từ vựng vào những câu đơn giản. 
Những học sinh khá có thể sử dụng từ vựng trong những câu phức tạp hơn.
5. Phạm vi áp dụng :
 - Có thể áp dụng cho các học sinh khối 7,8 ở trường và các trường THCS trong 
Huyện
I. Lý do chọn đề tài :
 Để nắm bắt các thông tin văn hoá – khoa học kỹ thuật tiên tiến của nước ngoài, thì 
điều quan trọng trước mắt là chúng ta phải học tiếng nước ngoài, phải học để hiểu và nói 
được một thứ tiếng phổ biến nhất thế giới đó là tiếng Anh. Là một giáo viên dạy bộ môn 
tiếng Anh , đào tạo những lớp người sau này có thể nắm bắt được những thông tin của 
nước ngoài áp dụng vào việc xây dựng đất nước Việt Nam ta ngày càng giàu mạnh hơn. 
Giáo viên phải nhận thức rằng bộ môn tiếng Anh được coi là một công cụ để giao tiếp, 
đòi hỏi chúng ta phải có một số vốn từ, cho nên việc học từ vựng là một tất yếu không thể 
không kể đến trong việc học tiếng Anh.
 Ở trường trung học cơ sở giáo viên dạy học cho học sinh cùng với các môn khác 
trên cơ sở trang bị cho học sinh hệ thống những kỹ năng, kỹ xảo cần thiết, nhằm đào tạo 
đội ngũ lao động có tri thức, có tay nghề, có kỹõ năng thực hành, năng động và sáng tạo 
.., việc hình thành và rèn luyện các kỹ năng cho học sinh giáo viên không chỉ chú ý vào 
việc truyền thụ kiến thức trong sách giáo khoa, sử dụng các phương tiện dạy học mà phải 
quan tâm đến việc tổ chức quá trình dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động của 
người học , đề cao và phát huy tốt vai trò tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong 
học tập, tổ chức cho học sinh lĩnh hội tri thức bằng chính hoạt động của mình, nhưng đa 
phần học sinh không hiểu tầm quan trọng của từ vựng nên rất lười học hoặc chỉ học hoa 
loa rồi không sử dụng được nó , trong đó có học sinh lớp 7A , với lượng kiến thức mới 
mà nó khác xa với tiếng mẹ đẻ như thế thì học sinh rất sợ học. Do vậy người giáo viên luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tế, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, 
hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh.
2. Cơ sở thực tiễn:
 - Bất cứ một thứ tiếng nào trên thế giới, muốn giao tiếp được với nó, đòi hỏi chúng 
ta phải có một vốn từ. Bởi vì từ vựng là một thành phần không thể thiếu được trong ngôn 
ngữ, được sử dụng cho hoạt động giao tiếp. Do vậy, việc nắm vững số từ đã học để vận 
dụng là việc làm rất quan trọng.
 - Trong Tiếng anh chúng ta không thể rèn luyện và phát triển bốn kỹ năng nghe, 
nói, đọc, viết của học sinh mà không dựa vào nền tảng của từ vựng. Thật vậy nếu không 
có số vốn từ cần thiết, các em sẽ không nghe được và hệ quả của nó là không nói được, 
đọc không được và viết cũng không xong, cho dù các em có nắm vững mẫu câu.
3/. Nội dung vấn đề:
 a. Thực trạng:
 - Theo phân phối chương trình hiện nay, môn tiếng Anh 7 mỗi tuần 03 tiết, mà hầu 
như tiết nào cũng có từ mới trong bài học và kể cả trong bài tập. Nhưng muốn dạy tốt từ 
vựng để tiết học sinh động hơn, Giáo viên phải làm tranh ảnh, đồ dùng để minh hoạ, tạo 
điều kiện cho các em nhớ từ dễ dàng và hướng sự chú ý của các em vào chủ đề hay trọng 
tâm bài học.
 - Về sự phân bố tiết trong tuần, có khi một buổi các em phải học hai tiết tiếng Anh 
liên tiếp, phải tải một số lượng từ rất nhiều. Điều này chắc chắn sẽ gây tâm lý quá tải cho 
một số học sinh, gây ảnh hưởng rất nhiều đến tiết học sau.
 - Về phía học sinh, bên cạnh một số em học hành nghiêm túc, có không ít học sinh 
chỉ học hoa loa, không khắc sâu được từ vựng vào trong trí nhớ, không tập đọc, tập viết 
thường xuyên, không thuộc nghĩa hai chiều. Đến khi giáo viên yêu cầu các em sẽ không 
thành công.
 - Về phía học sinh, cũng rất khó khăn trong việc kiểm tra hoặc hướng dẫn các em 
tự học ở nhà. Bởi vì vậy là môn ngoại ngữ, không phải phụ huynh nào cũng biết. Đây 
cũng là vấn đề hết sức khó khăn trong quản lý việc học ở nhà của học sinh.
 - Ngoài ra, cách học từ vựng của học sinh cũng là điều đáng được quan tâm, học 
sinh thường học từ vựng bằng cách đọc từ bằng tiếng Anh và cố nhớ nghĩa bằng tiếng 
Việt, có viết trong tập viết cũng là để đối phó với giáo viên, chứ chưa có ý thức tự kiểm Chúng ta đều biết cách dạy hai loại từ này khác nhau. Từ chủ động có liên quan 
đến bốn kỹ năng (nghe – nói – đọc – viết). Đối với loại từ này giáo viên cần đầu tư thời 
gian để giới thiệu và cho học sinh tập nhiều hơn.
Với từ bị động giáo viên chỉ cần dừng ở mức nhận biết, không cần đầu tư thời gian vào 
các hoạt động ứng dụng. Giáo viên cần biết lựa chọn và quyết định xem sẽ dạy từ nào 
như một từ chủ động và từ nào như một từ bị động.
 - Khi dạy từ mới cần làm rõ ba yếu tố cơ bản của ngôn ngữ là:
 + Form.
 + Meaning.
 + Use.
 Đối với từ chủ động ta chỉ cho học sinh biết chữ viết và định nghĩa như từ điển thì 
chưa đủ, để cho học sinh biết cách dùng chúng trong giao tiếp, giáo viên cần cho học sinh 
biết cách phát âm, không chỉ từ riêng lẻ, mà còn biết phát âm đúng những từ đó trong 
chuỗi lời nói, đặc biệt là biết nghĩa của từ.
 -Số lượng từ cần dạy trong bài tuỳ thuộc vào nội dung bài và trình độ của học sinh. 
Không bao giờ dạy tất cả các từ mới, vì sẽ không có đủ thời gian thực hiện các hoạt động 
khác. Tuy nhiên, trong một tiết học chỉ nên dạy tối đa là 6 từ.
 - Trong khi lựa chọn từ để dạy, bạn nên xem xét đến hai điều kiện sau: 
 + Từ đó có cần thiết cho việc hiểu văn bản không ?
 + Từ đó có khó so với trình độ học sinh không ?
 - Nếu từ đó cần thiết cho việc hiểu văn bản và phù hợp với trình độ của học sinh, 
thì nó thuộc nhóm từ tích cực, do đó bạn phải dạy cho học sinh.
 - Nếu từ đó cần thiết cho việc hiểu văn bản nhưng khó so với trình độ của học sinh, 
thì nó không thuộc nhóm từ tích cực, do đó bạn nên giải thích rồi cho học sinh hiểu nghĩa 
từ đó ngay.
 - Nếu từ đó không cần thiết cho việc hiểu văn bản và cũng không khó lắm thì bạn 
nên yêu cầu học sinh đoán.
 b. Các thủ thuật gợi mở giới thiệu từ mới:
 giáo viên có thể dùng một số thủ thuật gợi mở giới thiệu từ mới như:
 1. Visual (nhìn): cho học sinh nhìn tranh ảnh, vẽ phác hoạ cho các em nhìn, giúp 
giáo viên ngữ nghĩa hoá từ một cách nhanh chống. 5. Example
e.g. fumiture e.g. (to) complain
 T. lists examples of fumiture: T. saya, “This room is too noisy 
 “tables, chairs, beds – these are and too small. It’s no good 
 all ... fumiture ... Give me (etc.)”
 another example of... fumiture...” T. asks, “What am I doing?”
 6. Synonyon \ antonyon (đồng nghĩa \ trái nghĩa): Giáo viên dùng những từ đã 
học rồi để giảng từ đồng nghĩa hoặc trái nghĩa.
e.g. intelligent e.g. stuppid
 T. asks, “What’s another eord for T. asks, “What’s the opposite of 
 clever?” clever?”
 7. Translation (dịch): Giáo viên dùng những từ tương đương trong tiếng Việt để 
giảng nghĩa từ trong tiếng Anh. Giáo viên chỉ sử dụng thủ thuật này khi không còn cách 
nào khác, thủ thuật này thường được dùng để dạy từ trừu tượng, hoặc để giải quyết một 
số lượng từ nhiều nhưng thời gian không cho phép, Giáo viên gợi ý học sinh tự dịch từ 
đó.
e.g. (to) forget
 T. asks, “How do you say `quên` in English?”
 8. T’s eliciting questions : - Bước 2: “nói”, sau khi học sinh đã nghe được ba lần bạn mới yêu cầu học sinh 
nhắc lại. Khi cho học sinh nhắc lại , bạn cần chú ý cho cả lớp nhắc lại trước, sau đó mới 
gọi cá nhân.
 - Bước 3: “đọc”, bạn viết từ đó lên bảng và cho học sinh nhìn vào đó để đọc. Cho 
học sinh đọc cả lớp, rồi đọc cá nhân và sửa lỗi cho học sinh tới một chừng mực mà bạn 
cho là đạt yêu cầu.
 - Bước 4: “viết”, sau khi học sinh đã đọc từ đó một cách chính xác rồi bạn mới yêu 
cầu học sinh viết từ đó vào vở.
 - Bước 5: bạn hỏi xem có học sinh nào biết nghĩa của từ đó không và yêu cầu một 
học sinh lên bảng viết nghĩa của từ đó bằng tiếng Việt.
 - Bước 6: đánh trọng âm từ: phát âm lại từ và yêu cầu học sinh nhận diện âm tiết có 
trọng âm và đánh dấu.
 - Bước 7: cho câu mẫu và yêu cầu học sinh xác định từ loại của từ mới học.
 b/. Các thủ thuật kiểm tra và củng cố từ mới:
 Chúng ta biết rằng chỉ giới thiệu từ mới thôi không đủ, mà chúng ta còn phải thực 
hiện các bước kiểm tra và củng cố. Các thủ thuật kiểm tra và củng cố sẽ khuyến khích 
học sinh học tập tích cực và hiệu quả hơn. Trong hoạt động này, chúng ta có thể sử dụng 
để kiểm tra từ mới. Sau đây là năm thủ thuật kiểm tra từ mới:
 1. Rub out and Remember (giải thích – ví dụ)
 2. Slap the board (giải thích – ví dụ)
 3. What and where (giải thích – ví dụ)
 4. Matching (giải thích – ví dụ)
 5. Bingo (giải thích – ví dụ)
 6. Lisle order vocabulary (giải thích – ví dụ)
6. Hướng dẫn học sinh học từ vựng ở nhà:
 Để phát huy tốt tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong học tập, thì 
chúng ta cần tổ chức quá trình dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động của người học, 
trong quá trình dạy và học, giáo viên chỉ là người truyền tải kiến thức đến học sinh, học 
sinh muốn lĩnh hội tốt những kiến thức đó, thì các em phải tự học bằng chính các hoạt 
động của mình. TÀI LIỆU THAM KHẢO
 1. Những vấn đề chung về đổi mới Giáo dục Trung học cơ sở môn tiếng Anh – Bộ 
Giáo dục và Đào tạo. Nhà xuất bản Giáo dục.
 2. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên trung học cơ sở chu kỳ III (2004 
– 2007). Nhà xuất bản Giáo dục.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_day_tu_vung_mon_tieng_anh_7.doc