Sáng kiến kinh nghiệm Đổi mới phương pháp dạy học các tác phẩm ca dao dân ca trong chương trình Ngữ văn Lớp 7 THCS

pdf 25 trang sklop7 05/06/2024 1260
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Đổi mới phương pháp dạy học các tác phẩm ca dao dân ca trong chương trình Ngữ văn Lớp 7 THCS", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Đổi mới phương pháp dạy học các tác phẩm ca dao dân ca trong chương trình Ngữ văn Lớp 7 THCS

Sáng kiến kinh nghiệm Đổi mới phương pháp dạy học các tác phẩm ca dao dân ca trong chương trình Ngữ văn Lớp 7 THCS
 Đổi mới phương pháp dạy học các tác phẩm ca dao - dân ca 
trong chương trình ngữ văn lớp 7 – THCS 
 PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ 
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 
 1. Cơ sở lí luận. 
 Văn học, một môn học chứa đầy những nội dung phong phú, đa dạng 
về văn hóa, sự sống, tinh thần, tư tưởng cùng tâm hồn của con người trong thế 
giới từ xưa đến nay. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói “Văn học 
nghệ thuật là một thứ vũ khí vô song”. Văn học là tấm gương phản ánh hiện 
thực xã hội, là món ăn tinh thần không thể thiếu của mỗi người. Nó làm cho 
tâm hồn ,tư tưởng, tình cảm thêm phong phú, biết nhạy cảm trước cái đẹp, cái 
thiện của cuộc đời. Biết loại trừ cái xấu, cái ác trong cuộc sống. 
 Như chúng ta đã biết, vấn đề dạy tác phẩm văn học theo đặc trưng thể 
loại, theo thi pháp học hiện đại cho đến nay vẫn chưa hề cũ. Vì dạy tác phẩm 
văn chương theo đặc trưng thể loại, theo thi pháp học hiện đại là một trong 
những yêu cầu cần thiết và quan trọng. Nói như Giáo sư Trần Đình Sử thì 
“Thi pháp học hiện đại đem lại một lĩnh vực lí thuyết và văn hóa cảm nhận 
giúp cho người đọc hiểu văn tinh tế hơn, sâu sắc hơn và có ý thức hơn”. Bởi 
lẽ “Thi pháp là khoa học nghiên cứu các hình thức, các dạng thức, các phương 
tiện, phương thức tổ chức tác phẩm sáng tác ngôn từ, các kiểu cấu trúc, các 
thể loại tác phẩm nhằm nắm bắt các hiện tượng của ngôn từ văn học” 
(V.Vinogra dốp). Như thế, nghiên cứu đặc trưng thể loại, nghiên cứu thi pháp 
học hiện đại để áp dụng trong quá trình giảng dạy là rất cần thiết. Nó khẳng 
định được cách đi đúng hướng trong việc cải tiến, đổi mới phương pháp nội 
dung dạy - học Ngữ văn ở THCS theo chương trình SGK mới hiện nay. 
 Chúng ta biết rằng, SGK Ngữ văn mới hiện nay được biên soạn theo 
chương trình tích hợp, lấy các kiểu văn bản làm nơi gắn bó ba phân môn 
(Văn - Tiếng Việt - Tập làm văn), vì thế các văn bản được lựa chọn phải vừa 
tiêu biểu cho các thể loại ở các thời kì lịch sử văn học, vừa phải đáp ứng tốt 
cho việc dạy các kiểu văn bản trong Tiếng Việt và Tập làm văn. Vì vậy SGK 
Ngữ văn 7 hiện nay có cấu trúc theo kiểu văn bản, lấy các kiểu văn bản làm 
trục đồng quy. Ở chương trình Ngữ văn THCS, các em được học 6 kiểu văn 
 Page 1/25 Đổi mới phương pháp dạy học các tác phẩm ca dao - dân ca 
trong chương trình ngữ văn lớp 7 – THCS 
này với mục đích là cùng tìm hiểu về đặc trưng của ca dao – dân ca trên cơ 
sở của thi pháp học hiện đại. Từ đó để định hướng phương pháp giảng dạy ca 
dao – dân ca nhằm cá thể hóa việc học, đưa học sinh trở thành nhân tố cá 
nhân tích cực, chủ động, tự giác tham gia vào việc tìm hiểu những văn bản ca 
dao – dân ca, khám phá chân lí và giá trị nghệ thuật của tác phẩm. 
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: 
 Tôi đã vận dụng chuyên đề “Đổi mới phương pháp dạy học văn” và áp 
dụng vào phương pháp giảng dạy ca dao – dân ca trong chương trình Ngữ văn 
7 – THCS. 
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 
 1. Tìm hiểu bằng cách đọc, nghiên cứu tài liệu về phương pháp giảng 
dạy tác phẩm văn học theo đặc trưng thể loại. Các bài viết có tính chất khoa 
học và đã thành giáo trình giảng dạy. 
 2. Tham khảo ý kiến cũng như phương pháp giảng dạy các tác phẩm 
thuộc thể loại trữ tình của đồng nghiệp thông qua các buổi học chuyên đề, dự 
giờ thăm lớp. 
 3. Lấy thực nghiệm việc giảng dạy văn học ở trên lớp những bài ca dao 
– dân ca đặc biệt là những bài giàu giá trị nghệ thuật và đánh gái kết quả nhận 
thức của học sinh, để từ đó tìm hiểu nguyên nhân rút ra hướng rèn luyện học 
sinh. 
V. PHẠM VI VÀ KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU: 
1. Phạm vi nghiên cứu: 
 Nhằm đi sâu vào một vấn đề và chỉ dừng ở mức độ sáng kiến kinh 
nghiệm nên tôi chỉ giới hạn đề tài trong phạm vi nghiên cứu việc dạy học các 
văn bản ca dao – dân ca trong chương trình Ngữ văn THCS. Với phạm vi 
nghiên cứu hẹp như vậy, tôi hi vọng sẽ thu được nhiều kết quả khả quan, góp 
phần thực hiện nhiệm vụ giáo dục của một nhà giáo trong giai đoạn mới. 
2. Kế hoạch nghiên cứu: 
 §Ó lµm tèt viÖc đổi mới phương pháp dạy học văn khi giảng dạy 
ca dao dân ca trong chương trình ngữ văn lớp 7 – THCS cÇn cã mét 
qu¸ tr×nh chuÈn bÞ cña b¶n th©n ng­êi d¹y (vÒ kü 
n¨ng lµm viÖc víi m¸y tÝnh, s­u tÇm t­ liÖu cã liªn 
quan, kü n¨ng so¹n gi¸o ¸n ®iÖn tö....) 
 Page 3/25 Đổi mới phương pháp dạy học các tác phẩm ca dao - dân ca 
trong chương trình ngữ văn lớp 7 – THCS 
 \ 
 PHẦN THỨ HAI: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 
I. NHỮNG NỘI DUNG LÍ LUẬN LIÊN QUAN TRỰC TIẾP ĐẾN VẤN 
ĐỀ NGHIÊN CỨU: 
 1. Khái niệm ca dao – dân ca. 
 Theo SGK Ngữ văn 7 tập 1 trang 35 đã nêu khái niệm về ca dao – dân 
ca như sau: 
 - Ca dao – dân ca là tên gọi chung của các thể loại trữ tình dân gian kết 
hợp lời và nhạc, diễn tả đời sống nội tâm của con người. 
 - SGK cũng phân biệt hai khái niệm ca dao và dân ca. 
 + Dân ca là những sáng tác dân gian kết hợp lời và nhạc. 
 + Ca dao là lời thơ của dân ca. 
2. Nhìn chung về các loại ca dao – dân ca. 
 Lịch sử sinh thành, phát triển của ca dao, dân ca rất lâu dài, phong phú, 
phạm vi các hiện tượng ca dao dân ca của cộng đồng người Việt nói riêng 
cũng như các dân tộc nói chung rất rộng lớn, đa dạng. Việc phân loại, phân kì 
và vùng ca dao – dân ca là biện pháp cần thiết không thể thiếu khi tìm hiểu về 
ca dao – dân ca. 
 Các thể loại văn học dân gian nói chung cũng như các thể loại ca dao – 
dân ca nói riêng đều là sản phẩm của lịch sử, gắn bó với đời sống của con 
người trong những thời gian nhất định, Do ca dao – dân ca có những đặc điểm 
tương đồng và khác biệt với nhau nên việc phân loại ca dao – dân ca cũng có 
những điểm chung, riêng tương ứng. 
3. Các loại ca dao và dân ca chủ yếu. 
 a) Dân ca. 
 (1) Đồng dao 
 (2) Dân ca lao động 
 (3) Dân ca nghi lễ 
 Page 5/25 Đổi mới phương pháp dạy học các tác phẩm ca dao - dân ca 
trong chương trình ngữ văn lớp 7 – THCS 
 Ngôn ngữ trong ca dao đậm đà màu sắc địa phương, giản dị, chân thực, hồn 
nhiên, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân. Ví dụ như bài ca 
dao: 
 “Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát 
 Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng, bát ngát mênh mông”. 
 Thân em như chẽn lúa đòng đòng 
 Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai 
 (Trong đó ni = này; tê = kia: tiếng địa phương miền Trung) 
 Có nhiều bài ca dao được lan truyền nhanh chóng trở thành tiếng nói riêng 
của nhân dân nhiều địa phương khác nhau nhờ sự thay đổi địa danh là chủ 
yếu. Ví dụ: 
 Đường vô xứ Huế quanh quanh 
 Non xanh nước biếc như tranh họa đồ 
 Ai vô xứ Huế thì vô ... 
 b) Thể thơ trong ca dao. 
 Ca dao là phần lời của dân ca, do đó các thể thơ trong ca dao cũng sinh ra 
từ dân ca. Các thể thức trong ca dao cũng được dùng trong các loại văn vần 
dân gian khác (như tục ngữ, câu đố, vè ...) . Có thể chia các thể thơ trong ca 
dao thành bốn loại chính là: 
 - Các thể văn 
 - Thể lục bát 
 - Thể song thất và song thất lục bát 
 - Thể hỗn hợp (hợp thể). 
 Trong SGK Ngữ văn 7 tập I các bài ca dao được đưa vào chủ yếu là thể 
lục bát (mỗi câu gồm hai dòng hay hai vế, dòng trên sáu âm tiết, dòng dưới 
tám âm tiết nên được gọi là “thượng lục hạ bát”). Đây cũng là thể thơ sở 
trường nhất của ca dao. Thể thơ này được phân thành hai loại là lục bát chính 
thể (hay chính thức) và lục bát biến thể (hay biến thức). Ở lục bát chính thể, 
số âm tiết không thay đổi (6 + 8), vần gieo ở tiếng thứ sáu (thanh bằng), nhịp 
thơ phổ biến là nhịp chẵn (2/2/2...), cũng có thể nhịp thay đổi (3/3 và 4/4) . Ở 
lục bát biến thể, số tiếng (âm tiết) trong mỗi vế có thể tăng, giảm (thường dài 
hơn bình thường). 
 Page 7/25 Đổi mới phương pháp dạy học các tác phẩm ca dao - dân ca 
trong chương trình ngữ văn lớp 7 – THCS 
 Ví dụ: Đối thoại hai vế: 
 Ở đâu năm cửa nàng ơi 
 Sông nào sáu khúc nước chảy xuôi một dòng ? 
 Sông nào bên đục, bên trong ? 
 Núi nào thắt cổ bồng mà có thanh sinh ? 
 Đền nào thiêng nhất xứ Thanh 
 Ở đâu mà lại có thành tiên xây ? 
 Thành Hà Nội năm cửa nàng ơi 
 Sông lục đầu sáu khúc nước chảy xuôi một dòng 
 Nước sông Thương bên đục bên trong, 
 Núi Đức Thánh Tản thắt cổ bồng lại có thánh sinh 
 Đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh 
 Ở trên tỉnh Lạng có thành tiên xây” 
 - Phương thức trần thuật (hay kể chuyện trữ tình, khác với trần thuật 
trong các loại tự sự). 
 Ví dụ: 
 Con cò chết rũ trên cây, 
 Cò con mở lịch xem ngày làm ma. 
 Cà cuống uống rượu la đà, 
 Chim ri ríu rít bò ra lấy phần. 
 Chào mào thì đánh trống quân 
 Chim chích cởi trần, vác mõ đi giao” 
 - Phương thức miêu tả (miêu tả theo cảm hứng trữ tình, khác với miêu 
tả khách quan trong các thể loại tự sự). 
 Ví dụ: 
 Đường vô xứ Huế quanh quanh 
 Non xanh nước biếc như tranh họa đồ 
 Ai vô xứ Huế thì vô ... 
 - Ngoài ra còn có cả ba phương thức kép là (trần thuật kết hợp với đối 
thoại, trần thuật kết hợp với miêu tả; kết hợp cả ba phương thức). 
 Page 9/25 Đổi mới phương pháp dạy học các tác phẩm ca dao - dân ca 
trong chương trình ngữ văn lớp 7 – THCS 
 Cũng giống như thời gian, khi không gian được nói đến như một yếu tố 
góp phần tạo nên hoàn cảnh, trường hợp để tác giả bộc lộ cảm nghĩ (trực tiếp 
hoặc gián tiếp) thì đó là không gian mang tính chất tượng trưng do tác giả 
tưởng tượng, hư cấu hoặc tái tạo theo cảm xúc thẩm mỹ của mình. Ví dụ: 
những hình ảnh về không gian, địa điểm mang tính chất tượng trưng, phiếm 
chỉ, thường xuyên xuất hiện trong ca dao trữ tình (“cánh đồng”, “thác”, 
“ghềnh”, “bờ ao”, “mái nhà”, “ngõ sau”...). Ngay cả những địa điểm có thực 
khi vào ca dao trữ tình cũng mang tính chất tượng trưng. 
 d) Thủ pháp nghệ thuật chủ yếu: 
 Những bài ca dao được đưa vào SGK Ngữ văn 7 có nhiều thủ pháp nghệ 
thuật khác nhau (mang nét đặc trưng của ca dao truyền thống). Ở đây tôi chỉ 
đề cập đến những thủ pháp chủ yếu. 
 - So sánh là thủ pháp nghệ thuật được dùng thường xuyên, phổ biến nhất, 
bao gồm so sánh trực tiếp (tỉ dụ), so sánh gián tiếp (ẩn dụ). Tỉ dụ là so sánh 
trực tiếp, thường có những từ chỉ quan hệ so sánh: như, như là, như thể ... đặt 
giữa hai về (đối tượng và phương tiện so sánh). 
 Ví dụ: 
 - Đường vô xứ Huế quanh quanh 
 Non xanh nước biếc như tranh họa đồ 
 - Thân em như chẽn lúa đòng đòng 
 Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai. 
 - Yêu nhau như thể chân tay 
 Anh em hòa thuận, hai thân vui vầy. 
 - Công cha như núi ngất trời 
 Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển đông. 
 - Còn ở ẩn dụ (so sánh ngầm) thì không những không có quan hệ từ so 
sánh mà đối tượng so sánh cũng được ẩn đi, chỉ còn một vế là phương tiện so 
sánh (ở đây đối tượng và phương tiện so sánh hòa nhập làm một). Do vậy mà 
hình thức ẩn dụ hàm súc hơn tỉ dụ. 
 Ví dụ bài ca dao sau là tập hợp bốn hình ảnh ẩn dụ, mỗi hình ảnh ám chỉ 
một cảnh ngộ đáng thương của người lao động: 
 Page 11/25 Đổi mới phương pháp dạy học các tác phẩm ca dao - dân ca 
trong chương trình ngữ văn lớp 7 – THCS 
 Chú tôi hay tửu hay tăm 
 Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa. 
 Ngày thì ước những ngày mưa 
 Đêm thì ước những đêm thừa trống canh. 
 - Nghệ thuật phóng đại được sử dụng hầu hết ở những bài ca dao dùng để 
châm biếm: 
 Ví dụ: 
 Cậu cai nón dấu lông gà 
 Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai 
 Ba năm được một chuyến sai, 
 Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê. 
 Ngoài ra còn có một số biện pháp khác nữa. 
4.4. Phương thức diễn xướng. 
 Phương thức diễn xướng gắn liền với các hình thức nghệ thuật của dân 
ca (hát ru, hát, hò đối đáp ...) 
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ: 
1. Thuận lợi: 
 Những năm học vừa qua tôi đã được trực tiếp giảng dạy Ngữ văn của 
các lớp 7. Trong quá trình giảng dạy, tôi thấy học sinh tiếp thu bài tương đối 
đều, số học sinh khá ở các môn chiếm tỷ lệ cao, học lực trung bình khá trở lên 
nhiều, các em có tinh thần ham học hỏi, hăng say phát biểu ý kiến xây dựng 
bài, chuẩn bị bài tương đối đầy đủ trước khi đến lớp. 
 Xác định đây là môn học quan trọng, chiếm số tiết cao trong chương 
trình học cho nên đa số học sinh có ý thức học tốt đầu tư nhiều thời gian. 
 Bản thân tôi nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các đồng nghiệp. 
 Tài liệu tham khảo của giáo viên và học sinh phong phú, việc ứng dụng 
công nghệ thông tin vào giảng dạy tạo điều kiện cho giáo viên tham gia học 
để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ theo kịp với xu thế đổi mới hiện 
nay. 
2. Khó khăn: 
 Nhà trường tuy đã được trang bị máy chiếu, máy vi tính nhưng trình độ 
tin học của một số giáo viên còn chưa cao. 
 Page 13/25 

File đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_doi_moi_phuong_phap_day_hoc_cac_tac_ph.pdf