Sáng kiến kinh nghiệm Một số bài toán cơ bản về tỉ lệ thức và các cách giải
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số bài toán cơ bản về tỉ lệ thức và các cách giải", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số bài toán cơ bản về tỉ lệ thức và các cách giải
“Một số bài toán cơ bản về tỉ lệ thức và các cách giải” I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Toán học có vai trò rất quan trọng đối với đời sống và đối với các ngành khoa học. Ngay từ thế kỉ XIII, nhà tư tưởng Anh R.Bêcơn đã nói rằng: “Ai không hiểu biết toán học thì không thể hiểu biết bất cứ một khoa học nào khác và cũng không thể phát hiện ra sự dốt nát của bản thân mình”. Đến giữa thế kỉ XX nhà vật lí học nổi tiếng (P.Dirac) khẳng định rằng khi xây dựng lí thuyết vật lí “không được tin vào mọi quan niệm vật lí”, mà phải “tin vào sơ đồ toán học, ngay cả khi sơ đồ này thoạt đầu có thể không liên hệ gì với vật lí cả”. Sự phát triển của các nhà khoa học đã chứng minh lời tiên đoán của Các Mác: “Một khoa học chỉ thực sự phát triển nếu có thể sử dụng được phương pháp toán học”. Môn Toán học nói chung, Toán học ở bậc THCS nói riêng, trong đó có chương trình Toán lớp 7 luôn có sự kế thừa và phát triển kiến thức liền mạch trong hệ thống kiến thức Toán học của nhân loại. Trong quá trình dạy học Toán 7, tôi thấy các bài toán về tỉ lệ thức chiếm lượng kiến thức lí thuyết không nhiều, song về bài tập có vai trò quan trọng trong việc giải quyết nhiều bài toán cơ bản tính toán, suy luận chúng minh cũng như việc áp dụng kiến thức này vào nhiều phần kiến thức Toán, kể cả phân môn Hình học. Trong thực tế, nhiều học sinh bị nhầm lẫn giữa tỉ số của hai số và phân số, giải các bài tập về tỉ lệ thức một cách rập khuôn máy móc và cảm thấy khó khăn, “sợ” các bài tập này. Nguyên nhân cơ bản của những khó khăn mà học sinh gặp phải khi giải bài tập về tỉ lệ thức là học sinh chưa chủ động rèn luyện cách trình bày lời giải, các lập luận, những kiến thức được áp dụng trong quá trình làm bài nên dẫn đến thụ động, rập khuôn, thiếu tính sáng tạo. Do đó, học sinh mau quên những kĩ năng cơ bản ấy. Trong thực tế, theo chủ quan cá nhân tôi, tôi thấy điều cơ bản của việc dạy cách giải bài tập toán là tìm ra phương pháp dạy cho học sinh hiểu và tự giải những bài tập quen thuộc, cơ bản một cách rõ ràng, ngắn gọn, để từ đó học sinh liên tưởng, tìm tòi, vận dụng vào trong các bài tập liên quan hoặc cùng dạng. Vậy, làm thế nào để học sinh khắc sâu và vận dụng những kiến thức về tỉ lệ thức để giải được các bài tập cơ bản về tỉ lệ thức? Để trả lời câu hỏi này, tôi đã viết sáng kiến kinh nghiệm tìm hiểu “Một số bài toán cơ bản về tỉ lệ thức và các cách giải” trong chương trình Toán lớp 7, với mong muốn qua nội dung SKKN này, sẽ giúp các em giải một số bài tập cơ bản về tỉ lệ thức một cách dễ dàng nhất, hiệu quả nhất. Qua kiến thức trong sách giáo khoa và tham khảo một số tài liệu liên quan về tỉ lệ thức và dãy tỉ số bằng nhau, tôi đã cố gắng hệ thống lại một số dạng bài tập cơ bản liên quan tỉ lệ thức, mỗi dạng bài tập đều có phần gợi ý nhận xét, định hướng những cách giải thông qua kiến thức được áp dụng trong bài tập đó. Hơn nữa, với mong muốn được tích lũy thêm kiến thức kinh nghiệm trong giảng dạy, dần được làm quen với công tác nghiên cứu khoa học giáo dục, ngày càng nâng cao nhận thức khoa học bộ môn, những lí luận cần thiết về chuyên môn Giáo viên: Đoàn Công Nam Trường THCS Lương Thế Vinh Trang - 1 - “Một số bài toán cơ bản về tỉ lệ thức và các cách giải” - Kiến thức cơ bản về tỉ lệ thức và dãy tỉ số bằng nhau trong chương trình Toán 7 và một số tài liệu liên quan. - Học sinh Lớp 7 ở bậc trung học cơ sở – Trường THCS Lương Thế Vinh – Huyện Krông Ana các năm học 2012 – 2013; 2013 – 2014; 2014 – 2015. 4. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu Do tuổi đời và tuổi nghề chưa nhiều, với sự tích lũy có hạn của bản thân, tôi chỉ mạn phép nghiên cứu về một số cách giải các bài toán cơ bản về tỉ lệ thức và dãy tỉ số bằng nhau trong chương trình Toán 7, trong thời gian nghiên cứu và áp dụng SKKN là các năm học gần đây tôi được trực tiếp dạy chương trình Toán 7. 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu tài liệu. - Phương pháp đàm thoại – gợi mở. - Phương pháp thu thập và xử lý số liệu. - Phương pháp tác động giáo dục . - Phương pháp kiểm tra đánh giá. - Phương pháp thực nghiệm. II. PHẦN NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận Qua thực tế giảng dạy môn Toán THCS nói chung và môn Toán lớp 7 bậc trung học cơ sở – Trường THCS Lương Thế Vinh – Huyện Krông Ana các năm học 2012 – 2013; 2013 – 2014; 2014 – 2015 nói riêng, tôi thấy môn Toán 7 - phân môn Đại số đã tạo ra những sự liên kết kiến thức của cuối chương trình Toán 6 và đầu chương trình Toán 7, trong đó có phần kiến thức về tỉ lệ thức. Để am hiểu cặn kẽ mảng kiến thức này, đòi hỏi người học phải luôn có sự đam mê khám phá, tìm hiểu và ghi nhớ định nghĩa, tính chất của tỉ lệ thức một cách chính xác và sáng tạo. Những kiến thức ở mức độ căn bản thường yêu cầu tất cả người học phải nắm được. Những kiến thức mở rộng, nâng cao, luôn tạo ra nhiều cơ hội mới cho những ai có lòng say mê bộ môn, có tính kiên trì, nghị lực, có bản lĩnh vượt khó tìm hiểu và chinh phục. Trong quá trình giảng dạy, cùng với sự trao đổi qua các đồng nghiệp, tôi thấy kết quả của học sinh trong khi học mảng kiến thức về tỉ lệ thức được thể hiện rất rõ qua việc luyện tập trên lớp, bài kiểm tra 15 phút lần một và bài kiểm tra một tiết lần một. Có những bài học sinh trình bày rất tốt, sáng tạo, tuy nhiên có nhiều bài làm trình bày sơ sài, dư thừa hoặc thiếu sót nhiều, thậm chí nhiều bài không định hình được cách trình bàyVà sau khi hướng dẫn, tìm cho các em những mẹo nhớ, Giáo viên: Đoàn Công Nam Trường THCS Lương Thế Vinh Trang - 3 - “Một số bài toán cơ bản về tỉ lệ thức và các cách giải” a b c * Nếu a, b, c tỉ lệ với m, n, p, ta có: m n p a c e * Nếu có m thì a b.m, c d.m, e f.m b d f * Ngoài ra, ta thấy tỉ lệ thức là một đẳng thức nên nó cũng có tính chất của một a c đẳng thức: Từ tỉ lệ thức ;(a, b, c, d 0) , suy ra: b d 2 2 2 a c a c a c a c e +/ . +/ m. m. ; m 0 +/ . b d b d b d b d f 3 3 3 m.a n.c a c e a c e a c e +/ ; m;n 0 +/ . . m.b n.d b d f b d f b d f 2. Thực trạng Sau thời gian được phân công giảng dạy các lớp 7 trong những năm học vừa qua tại trường THCS Lương Thế Vinh, bản thân tôi đã tích lũy được những kiến thức và học hỏi từ đồng nghiệp rất nhiều kinh nghiệm quý báu, điều đó đã giúp tôi có nhiều thuận lợi hơn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giảng dạy được phân công. Trong những năm tôi mới ra trường, tôi đã được phân công dạy lớp 7. Từ năm học 2007– 2008, tôi đã tích lũy một số kiến thức và các dạng bài tập cơ bản về tỉ lệ thức và dãy tỉ số bằng nhau. Tôi đã dần sưu tầm, tìm hiểu các bài toán về vấn đề này và áp dụng vào dạy các năm học 2012 – 2013; 2013 – 2014; 2014 – 2015. Qua thời gian nghiên cứu, thực hiện viết và áp dụng SKKN “Một số bài toán cơ bản về tỉ lệ thức và các cách giải” ở trường THCS Lương Thế Vinh – Huyện Krông Ana – Tỉnh ĐắkLắk”, bản thân tôi tiếp tục trao đổi với những giáo viên đã và đang giảng dạy khối 7 để tích lũy thêm kiến thức cho SKKN này. Qua đó, tôi thấy: 2.1. Thuận lợi – Khó khăn * Thuận lợi: SKKN này được chuẩn bị, thử nghiệm và hoàn thành trong thời gian ba năm học, được sự trao đổi về kiến thức cũng như kinh nghiệm với các đồng nghiệp, nên bản thân tôi đã phần nào tự tích lũy cho mình một vốn kiến thức nho nhỏ đảm bảo cho SKKN được hoàn thành. Với lượng kiến thức nêu trong SKKN, tuy chưa đầy đủ song có thể đã đáp ứng được mục tiêu của SKKN đề ra, phần nào đã giúp cho học sinh dễ dàng hơn trong tiếp cận và ghi nhớ các dạng bài tập cơ bản về tỉ lệ thức. Đồng thời, thu hút thêm sự đóng góp ý kiến, nhận xét của mọi người để SKKN hoàn thiện hơn. * Khó khăn: Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành SKKN, bên cạnh những mặt thuận lợi cũng có nhiều những khó khăn phải kể đến. Trước hết, do Giáo viên: Đoàn Công Nam Trường THCS Lương Thế Vinh Trang - 5 - “Một số bài toán cơ bản về tỉ lệ thức và các cách giải” Nội dung này là một phần kiến thức tuy ngắn gọn song được bao hàm có thể áp dụng được trực tiếp vào giảng dạy trên lớp cũng như dạy tạo nguồn kiến thức bồi dưỡng HSG của nhiều khối lớp cấp THCS. * Mặt yếu: Cách trình bày bài làm đôi khi gây cho học sinh lối mòn nếu học sinh không thật chăm chỉ, thụ động. Đề bài đôi khi quá “cồng kềnh” như dạng toán chia tỉ lệ hoặc quá “đơn giản” như dạng toán chứng minh đẳng thức, bất đẳng thức dẫn đến học sinh dễ mắc sai lầm trong suy nghĩ, trong lời giải, trong trình bàyVì vậy, đây là một vấn đề để bản thân tôi trăn trở, suy nghĩ và chuẩn bị kiến thức thật cẩn thận khi giảng dạy. Từ đó, tôi tự rút kinh nghiệm cho mình để mục đích cuối cùng là đạt được kết quả cao về nội dung của SKKN đề ra. 2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động. Thực tế cho thấy có nhiều nguyên nhân, nhiều yếu tố tác động tạo nên những khó khăn, hạn chế nêu trên. Trước hết phải kể đến là ý thức tự giác trong học tập của người học chưa cao, khả năng tự học, tự rèn của học sinh hiện nay giảm sút nhiều, học sinh bị thụ động hoặc “bão hòa” kiến thức vì học thêm, học ôn quá nhiều môn học. Nhiều học sinh chăm ngoan, học giỏi, có ý thức rèn luyện và tự học cao. Các em ít có những suy nghĩ sáng tạo khi làm bài tập khó hoặc khi làm bài tập sai thì động lực để các em quyết tâm tự làm lại cho đúng chưa nhiều, còn chờ đợi giáo viên sửa bài. Một điều nữa là việc lưu giữ (quá trình ghi nhớ), tái hiện (trình bày bằng lời hoặc viết) của học sinh chưa tốt, các em lười học bài và làm bài tập ở nhà, thậm chí nhiều em làm bài tập đối phó, chiếu lệ cho xong. Trong mảng kiến thức về tỉ lệ thức và dãy tỉ số bằng nhau, các em học sinh trung bình và trung bình – khá tỏ ra lúng túng khi lập luận, khi trình bày lời giải. Vì vậy mà các em nhanh quên kiến thức đã áp dụng để giải bài tập dẫn đến ngại làm bài tập tương tự. Trong khi đó, để học môn toán tốt, nhớ lâu kiến thức thì con đường vô cùng hiệu quả là luyện giải bài tập. 2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đặt ra Từ thực trạng và nguyên nhân trên, để giúp các em có vốn kiến thức, lấy lại sự tự tin trong học tập, thầy cô cần giúp các em ôn tập, một cách hệ thống lại các kiến thức đã học, hướng dẫn các em cách trình bày lời giải của một bài tập, sau đó yêu cầu các em vận dụng làm các bài tập từ dễ đến khó. Giáo viên cần kiểm tra thường xuyên việc học và làm bài tập của học sinh. Giải pháp khắc phục là cần tăng cường sự phối hợp tốt hơn nữa giữa nhà trường và gia đình học sinh, đặc biệt là những em mà gia đình có điều kiện kinh tế khó khăn, sự động viên khích lệ của giáo viên dành cho gia đình và bản thân các em là cần thiết. 3. Giải pháp, biện pháp 3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp Do yêu cầu của phương pháp dạy học mới có sự thay đổi so với phương pháp dạy học truyền thống, phải đảm bảo tính chủ đạo của thầy và chủ động của trò; thầy Giáo viên: Đoàn Công Nam Trường THCS Lương Thế Vinh Trang - 7 -
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bai_toan_co_ban_ve_ti_le_thuc_v.doc
- Bìa SKKN.doc