Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng làm văn biểu cảm cho học sinh Lớp 7

doc 16 trang sklop7 16/04/2024 1280
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng làm văn biểu cảm cho học sinh Lớp 7", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng làm văn biểu cảm cho học sinh Lớp 7

Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng làm văn biểu cảm cho học sinh Lớp 7
 UBND HUYỆN GIA LÂM
 PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
 MÃ SKKN
 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
RÈN KĨ NĂNG LÀM VĂN BIỂU CẢM 
 CHO HỌC SINH LỚP 7
 Môn: Ngữ Văn
 Cấp học: THCS
 NĂM HỌC: 2015- 2016
 Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm cho học sinh lớp 7
 ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài
 “Văn học là nhân học”. Đúng vậy, văn học có vai trò rất quan trọng trong đời 
sống và trong phát triển tư duy của con người. Bộ môn Ngữ Văn là một môn học 
thuộc nhóm khoa học xã hội, môn Văn có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan 
điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Đồng thời cũng là môn học thuộc nhóm 
công cụ, môn Văn còn thể hiện rõ mối quan hệ với các môn học khác. Học tốt môn 
Ngữ Văn sẽ tác động tích cực tới tất cả các môn học và ngược lại, các môn học 
khác cũng góp phần học tốt môn Văn. Điều đó đặt ra yêu cầu tăng cường tính thực 
hành, giảm lí thuyết, gắn học với hành, gắn kiến thức với thực tiễn hết sức phong 
phú, sinh động của cuộc sống.
 Môn Ngữ Văn trong nhà trường THCS chia làm ba phân môn: Văn bản, Tiếng 
Việt, Tập làm văn. Trong thực tế dạy và học, phân môn Tập làm văn là không thể 
thiếu để học sinh rèn kĩ năng viết văn. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: 
“Dạy làm văn là chủ yếu dạy cho học sinh diễn tả cái mà mình suy nghĩ, mình cần 
bày tỏ một cách trung thành, sáng tỏ, chính xác, làm nổi bật điều mình muốn 
nói” (Trong “Dạy Văn là một quá trình rèn luyện toàn diện”- Nghiên cứu Giáo 
dục, số 28, ngày 11/1/1973).
 Trong giảng dạy môn Ngữ Văn 7, tôi nhận thấy mặc dù biểu lộ tình cảm, cảm 
xúc là một nhu cầu thiết yếu của con người. Nhưng học sinh không hoặc chưa biết 
cách bộc lộ cảm xúc của mình để “khơi gợi lòng đồng cảm nơi người đọc” (Ngữ 
Văn 7, tập một). Khi hành văn, các em còn lẫn lộn, chưa phân biệt rõ ràng, rạch ròi 
giữa văn biểu cảm với các thể loại văn khác. (Ví dụ như văn miêu tả hay văn tự sự 
chẳng hạn). Chính vì thế, kết quả của các bài kiểm tra và điểm trung bình môn Văn 
của các em còn thấp. Thực tế đó quả là đáng lo ngại. Vậy thực trạng vấn đề này ra 
sao? Vì sao học sinh gặp nhiều khó khăn trong việc làm văn biểu cảm? Cần phải 
làm gì để nâng cao chất lượng dạy và học văn biểu cảm cho học sinh lớp 7? Đó là 
những trăn trở của tôi rất muốn chia sẻ với đồng nghiệp trong sáng kiến kinh 
nghiệm này.
2. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
2.1. Phạm vi nghiên cứu:
 Trong chương trình THCS ban hành năm 2002 có phân phối dạy văn biểu cảm 
ở lớp 7 là 14 tiết. Chính vì vậy, trong sáng kiến kinh nghiệm này, tôi chỉ đề cập đến 
nội dung văn biểu cảm trong chương trình SGK Ngữ Văn lớp 7.
2.2. Đối tượng nghiên cứu:
 Học sinh lớp 7C.
3. Mục đích
 Khi đặt ra vấn đề: “Rèn kĩ năng làm văn biểu cảm cho học sinh lớp 7”, tôi rất 
muốn các đồng nghiệp chia sẻ cùng tôi những kinh nghiệm giảng dạy trong thực tế. 
Đồng thời trao đổi, bàn luận để tìm ra biện pháp thiết thực, khả thi nhất, giải quyết 
triệt để nhất vấn đề học sinh thích môn học tự nhiên hơn xã hội. Từ đó, các em sẽ 
hứng thú với môn Văn hơn, bồi đắp tâm hồn, tình cảm cho các em nhiều hơn. Mục 
 2/14 Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm cho học sinh lớp 7
 GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
 Chương I: Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu: “Rèn kĩ năng làm văn biểu 
 cảm cho học sinh lớp 7”
 Văn biểu cảm là loại văn thể hiện nội tâm, tâm trạng, tâm lí của người viết. Khi 
ngồi trước trang giấy, nếu tâm hồn trống rỗng, không cảm xúc, đầu óc mông 
lungthì các em không thể có một đoạn văn hay bài văn biểu cảm có hồn được. 
Lúc đó, bài văn hoặc khô khan, nhạt nhẽo, hoặc giả tạo, vay mượntình cảm sẽ 
không chân thực, xúc động. Người giáo viên khi dạy Văn ở THCS nói chung và 
dạy thể loại văn biểu cảm nói riêng, ngoài nắm kiến thức thì cũng cần phải có một 
tâm hồn, một trái tim yêu thương như đang sống cùng tác giả, tác phầm.
 Để dạy và học tốt văn biểu cảm ở THCS mà đặc biệt là lớp 7, người dạy và 
người học cần nắm vững hệ thống 6 bài học và luyện tập về văn biểu cảm (Trong 
số 14 tiết học văn biểu cảm ở lớp 7, học kì I) gồm:
 - Tìm hiểu chung về văn biểu cảm.
 - Đặc điểm của văn biểu cảm.
 - Đề văn biểu cảm và cách làm bài văn biểu cảm.
 - Cách lập ý của bài văn biểu cảm.
 - Các yếu tố tự sự và miêu tả trong văn biểu cảm.
 - Cách làm bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học.
 Chương II: Thực trạng và vấn đề nghiên cứu
1. Thực trạng
 Qua nhiều năm giảng dạy Chương trình Ngữ Văn 7, tôi nhận thấy kĩ năng nhận 
diện các phương thức biểu đạt trong văn bản, kĩ năng viết, bộc lộ cảm xúc trong bài 
Tập làm văn của học sinh còn rất hạn chế. Năm học 2015- 2016, tôi cho học sinh 
viết bài văn số 2 với đề: “Loài cây em yêu”. Mặc dù vừa mới học và hình thành kĩ 
năng tạo lập văn biểu cảm xong nhưng nhiều học sinh không phân biệt được văn 
miêu tả, văn tự sự với văn biểu cảm. Vì vậy, các em viết rất ngắn, sơ sài. Các bài 
viết đó không bộc lộ được thái độ, tình cảm của mình đối với một loài cây cụ thể 
mà các em đi kể và tả về chúng. Hoặc tiết viết bài văn số 3, đề yêu cầu: “Cảm nghĩ 
của em về hình ảnh người bà thân yêu của mình”. Có một học sinh đã viết như này: 
“Bà nội hay thức khuya dậy sớm để làm việc mà cả ngày nội chưa làm. Bà thường 
đi làm thuê làm mướn để kiếm tiền nuôi chúng em ăn học. Em thấy vậy nên bảo bà 
nội: “Hay là nội đừng đi làm thuê nữa, nội chuyển sang mở quán bán hang tập hóa 
đi”. Nội suy nghĩ một hồi lâu rồi nói: “Đó cũng là một ý kiến hay.” Đoạn văn trên 
viết về người bà thân yêu của mình mà người đọc cảm thấy như viết về một người 
xa lạ vì không hề có một tình cảm nào của cháu với bà. Hơn nữa đoạn văn đó đơn 
thuần là kể. Cũng với đề văn trên, một học sinh khác viết câu kết bài: “Cảm nghĩ 
của em về bà là một người bà yêu mến con cháu.” Câu văn trên nêu rõ cảm nhận về 
bà nhưng gượng ép, khô khan. Dường như còn một bộ phận học sinh làm bài văn 
như đối phó cho có lệ nên chất lượng môn học chưa cao. Tôi thấy kể cả những em 
học khá, dù cảm và hiểu được yêu cầu của đề, xác định đúng hướng làm bài nhưng 
kể vẫn nhiều hơn viểu cảm. 
 4/14 Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm cho học sinh lớp 7
 Ngoài một số phương pháp tích cực trong dạy học phân môn Tập làm văn như 
thông qua hoạt động, trực quan, vấn đáp, thảo luận, tự học thì giáo viên cần vận 
dụng sáng tạo một số phương pháp khác như: đóng vai, trò chơi, tự học, tự sưu tầm 
tài liệu, đi trải nghiệm Và theo tôi, chúng ta khi dạy văn biểu cảm cho học sinh 
cần theo một quy trình: gồm 4 bước sau:
Bước 1: Tìm hiểu đề và tìm ý:
a. Tìm hiểu đề:
 Một đề bài thường ra dưới dạng khái quát nhằm thích hợp với tất cả các đối 
tượng học sinh. Do đó, quá trình tìm hiểu đề sẽ diễn ra như một hoạt động nhằm cá 
thể hóa đề bài cho từng học sinh. Kết quả của quá trình này là mỗi học sinh có một 
đề bài cho riêng mình. Trong đề bài văn biểu cảm, giáo viên cần định hướng cho 
các em tìm hiểu đề bằng cách tìm ra lời giải cho các câu hỏi:
- Em định phát biểu cảm nghĩ, tình cảm, mong muốn về đồ vật (con vật, loài cây, 
cảnh vật) nào? Về người nào? Về tác phẩm nào?
- Em viết bài biểu cảm đó nhằm mục đích gì? (Giãi bày cảm xúc, tình cảm nào?).
- Em viết bài biểu cảm đó để ai đọc? (Thầy cô giáo, bố mẹ hay bạn bè?).
 Lời giải đáp cho ba câu hỏi trên sẽ góp phần quyết định nội dung bài viết 
(Trình bày cảm xúc gì?); giọng điệu bài viết (Viết cho bạn bè phải là giọng thân 
mật, có thể suồng sã; cho thầy cô hoặc bố mẹ phải gần gũi, kính yêu nhưng nghiêm 
trang).
b. Tìm ý:
 Giáo viên chỉ ra cho học sinh cách đi tìm ý như sau: Tìm ý cho bài văn biểu 
cảm chính là tìm cảm xúc, tìm những ý nghĩ và tình cảm để diễn đạt thành nội dung 
của bài. Ý nghĩ, cảm xúc, tình cảm muôn màu muôn vẻ trong các bài văn biểu cảm 
đều bắt nguồn từ việc quan sát cuộc sống xung quanh, từ những gì người viết đã 
sống và trải qua, hoặc đã tiếp xúc trong tác phẩm. Vì thế, các em muốn tìm ý cho 
bài văn biểu cảm không phải cứ ngồi một chỗ mà đợi ý nghĩ, cảm xúc đến. Sau khi 
có một đề bài, học sinh hãy quan sát thật kĩ đối tượng đề bài nêu ra, từ đó cảm xúc 
sẽ dần xuất hiện. Nếu không có điều kiện quan sát trực tiếp, hãy lục lọi trong trí 
nhớ, trong kỉ niệm những gì mình biết về đối tượng và từ từ nhớ lại các chi tiết. 
Nếu các kỉ niệm trong trí nhớ cũng không có thì tìm đọc sách báo, xem phim ảnh 
về đối tượng để ghi nhận các chi tiết cần thiết.
 Đối với văn biểu cảm về tác phẩm văn học, cảm xúc và suy nghĩ về tác phẩm 
văn học được nảy sinh từ bản thân tác phẩm. Tìm ý trong trường hợp này chính là 
đọc kĩ, đọc đi đọc lại nhiều lần tác phẩm. Từ đó ngẫm nghĩ và tìm ra vẻ đẹp, triết lí 
của nội dung, đồng thời tìm ra cái mới, cái độc đáo của các yếu tố hình thức nghệ 
thuật.
Bước 2: Lập dàn ý:
 Bài văn biểu cảm cũng có kết cấu ba phần (Mở bài- Thân bài- Kết bài) như các 
kiểu văn khác. Mở bài nhằm giới thiệu đối tượng và cảm xúc chính về đối tượng. 
Thân bài là sự phát triển các cảm xúc chính đã nêu ra ở phần mở bài. Kết bài là 
khép lại các ý đã trình bày.
 6/14 Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm cho học sinh lớp 7
mình thấy thế nào trước vật ấy, người ấy, sự việc ấy? Ví dụ khi biểu cảm về loài 
cây, tôi thường hỏi các em thích cây nào, vì sao em thích, em đã đối xử với nó như 
thế nào? Nếu các em không trả lời được, tôi sẽ gợi ý cho các em: Vẻ đẹp, lợi ích, 
kỉ niệm gắn bó với cây đó. Từ đó để các em nảy sinh tình cảm tích cực về một 
loài cây mà mình biểu cảm. Còn khi biểu cảm về người, tôi hỏi các em: Ở địa 
phương các em hiện nay có một số người lang thang cơ nhỡ và có vấn đề về thần 
kinh, các em nghĩ gì khi gặp họ? Nếu các em nói: sợ họ, ghét họ, thấy ghê 
tởmhay có em nói thương họ. Tôi nói tiếp với các em rằng: Em hãy đặt địa vị 
những người đó là bố mẹ, cô dì, chú bác, anh em của mình thì sao? Các em nghĩ 
một lát rồi đều nói là rất thương họ. Đồng thời tôi cũng sẽ chia sẻ với các em tôi 
nghĩ gì, muốn làm gì khi gặp họ. Từ đó các em đã nảy sinh tình cảm rất tích cực. 
Hoặc trước khi viết bài về mẹ, tôi đã chia sẻ cảm xúc của tôi khi mẹ mình bị bệnh; 
rồi những cảm xúc của một học sinh khi có mẹ chẳng may qua đời Tất cả những 
chia sẻ ấy tôi đã phần nào “đọc” được tâm trạng, cảm xúc của các em. Những điều 
đó góp phần đánh thức tâm hồn và gieo vào trái tim bé bỏng của các em nhiều tình 
cảm tích cực. Tôi cũng chỉ cho các em thấy tất cả điều bình dị, quen thuộc đôi khi 
ta không lắng lòng cảm nhận thì vô tình ta đã biến trái tim mình dần chai sạn, khô 
cằn. Ai biết nuôi dưỡng cảm xúc là cách hiệu quả để có thể làm tốt văn biểu cảm.
* Giáo viên hướng dẫn cho học sinh biết cách thể hiện cảm xúc khi làm văn biểu 
cảm.
a. Biểu cảm trực tiếp:
 Đây là cách diễn đạt tình cảm, cảm xúc, ý nghĩ của người viết một cách rõ ràng 
bằng các từ ngữ, câu chữ chứ không phải thông qua các hình thức biểu hiện khác. 
Đây là cách dùng phổ biến trong văn biểu cảm. Học sinh vận dụng cách biểu cảm 
trực tiếp vào bài viết cũng dễ dàng hơn hình thức biểu cảm gián tiếp. Vì nó dễ nhận 
biết, dễ thực hiện và dễ tác động đến tình cảm của người đọc nhất.
 Những nếu vận dụng không khéo, bài viết của các em dễ rơi vào tình trạng 
gượng ép, miễn cưỡng, không chân thật. Chính vì lẽ đó, các em cần chú ý kĩ năng 
vận dụng cách tạo cảm xúc sao cho tự nhiên, chân thực. Hình thức biểu cảm trực 
tiếp thường sử dụng các cách tạo cảm xúc sau:
- Sử dụng từ ngữ biểu cảm:
Ví dụ 1: “ Tôi phập phồng cùng những nụ hoa đang bắt đầu hé nở. Tôi mê mẩn 
trước những bông hoa đang tỏa bừng rực rỡ. Tôi ngây ngất trước những hàng hoa 
đang lặng lẽ đưa hương, như muốn ủ vào đất, ướp lên trời, như muốn len vào hồn 
người. Tôi ngạc nhiên cùng mảnh đất ấy, âm thầm và lặng lẽ, giản dị và lớn lao, 
suốt đời đất ở dưới chân người bất ngờ bung lên tỏa bao sắc màu”
 (Trích Loài hoa tôi yêu- Hạ Huyền)
Nhận xét: Trong đoạn văn trên, để bộc lộ cảm xúc của mình về các loài hoa, tác giả 
sử dụng những động từ chỉ trạng thái cảm xúc một cách tự nhiên và say mê.
=> Cách sử dụng những động từ chỉ cảm xúc, trạng thái của con người.
Ví dụ 2: “Hằng năm, cứ vào cữ hạ sớm này, người Hà Nội lại được hưởng những 
cơn mưa lá sấu vàng ào ạt rơi trong hương sấu dìu dịu thơm thơm. Hương lá sấu 
 8/14

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_ren_ki_nang_lam_van_bieu_cam_cho_hoc_s.doc