SKKN Một số kinh nghiệm định hướng phát triển năng lực học sinh trong dạy học văn bản nhật dụng Ngữ văn 7 tại trường THCS Lương Thế Vinh

doc 17 trang sklop7 23/06/2024 1030
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm định hướng phát triển năng lực học sinh trong dạy học văn bản nhật dụng Ngữ văn 7 tại trường THCS Lương Thế Vinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số kinh nghiệm định hướng phát triển năng lực học sinh trong dạy học văn bản nhật dụng Ngữ văn 7 tại trường THCS Lương Thế Vinh

SKKN Một số kinh nghiệm định hướng phát triển năng lực học sinh trong dạy học văn bản nhật dụng Ngữ văn 7 tại trường THCS Lương Thế Vinh
 Một số kinh nghiệm phát triển năng lực học sinh qua giảng dạy văn bản nhật dụng Ngữ văn 7 tại 
 trường THCS Lương Thế Vinh – Krông Ana- Đắk Lắk
 Phần thứ nhất : MỞ ĐẦU
 I. Đặt vấn đề
 Lí do lí luận
 Nghị quyết 29 – NQTW 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục 
và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế 
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế có viết: “ Chuyển mạnh 
quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực 
và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn, giáo dục 
nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và xã hội...”. Bộ giáo dục Đào tạo đổi 
mới chương trình SGK theo định hướng phát triển năng lực học sinh là quan điểm 
cần thiết để xác định mức độ đạt được của từng năng lực, gợi ý cách thức kiểm tra 
cũng như đánh giá năng lực học sinh..
 Phương pháp dạy học theo quan điểm phát triển năng lực không chỉ chú ý 
tích cực hoá học sinh về hoạt động trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện năng lực giải 
quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp, đồng thời 
gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn. Tăng cường việc học tập 
trong nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên học sinh theo hướng cộng tác có ý nghĩa 
quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội. Bên cạnh việc học tập những tri thức 
và kỹ năng riêng lẻ của các môn học chuyên môn cần bổ sung các chủ đề học tập 
phức hợp nhằm phát triển năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp.
 Lí do thực tiễn
 Qua thực tế giảng dạy ở trường THCS Lương Thế Vinh – huyện Krông Ana – 
tỉnh Đăk Lăk đa số học sinh chưa có sự say mê học môn Ngữ văn. Khả năng cảm 
thụ, diễn đạt, trình bày về văn chương... còn nhiều hạn chế. Các em thiểu sự chuẩn 
bị bài trước khi đến lớp, khi vào lớp học sinh rất thụ động. Một số em chỉ biết dựa 
vào sách giáo khoa trả lời máy móc, không có tư duy sáng tạo...Một số giáo viên 
còn quen với cách dạy học cũ, nặng về thuyết trình, chưa chú ý khai thác kênh 
hình, hay bản đồ hoặc đưa thêm tư liệu minh họa cho bài dạy , ít tạo điều kiện cho 
học sinh khai thác kiến thức. Từ đó việc học của học sinh trở nên nặng nề, nhàm 
chán, hiệu quả học tập không cao.
 Đặc biệt trong chương trình Ngữ văn THCS được xây dựng theo tinh thần tích 
hợp. Các văn bản được lựa chọn theo tiêu chí thể loại văn bản ngoài yêu cầu về tính 
tư tưởng phù hợp với tâm lí lứa tuổi THCS thể hiện qua các tác phẩm văn học còn 
có nội dung là tính cập nhật, gắn kết với đời sống, đưa học sinh đến với những vấn 
đề quen thuộc, gần gũi hằng ngày vừa có tình lâu dài mà mọi người quan tâm đến 
thể hiện trong các văn bản nhật dụng. Giảng dạy văn bản nhật dụng theo định 
hướng phát triển năng lực sẽ giúp học sinh phát huy những phẩm chất năng lực đáp 
ứng được với yêu cầu của xã hội hiện đại tuy nhiên thực tế cho thấy trong giảng 
 Lưu Thị Hiền Phương – THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana- Đắk Lắk 1 Một số kinh nghiệm phát triển năng lực học sinh qua giảng dạy văn bản nhật dụng Ngữ văn 7 tại 
 trường THCS Lương Thế Vinh – Krông Ana- Đắk Lắk
 Dạy học sử dụng kiến thức trong tình huống cụ thể. Thay vì tham nhồi nhét 
cho học sinh nhiều kiến thức lí thuyết, dạy học định hướng phát triển năng lực chú 
trọng tập dượt cho học sinh vận dụng các kiến thức kĩ năng học được vào các tình 
huống thực tế, có ích cho cuộc sống sau này làm công dân, làm người lao động, có 
năng lực sống tự lập.
 Cũng như các môn học khác môn Ngữ văn có nhiệm vụ và khả năng góp phần 
vào việc thể hiện mục tiêu đào tạo của Trường phổ thông nói chung, cung cấp cho 
học sinh những kiến thức cơ bản của khoa học xã hội, thế giới tự nhiên, những 
năng lực, kĩ năng giải quyết vấn đề ; nên đòi hỏi học sinh không chỉ biết mà còn 
phải hiểu và vận dụng những kiến thức đã học vào cuộc sống cho nên cùng với các 
môn học khác việc học tập Ngữ văn áp dụng phương pháp này có thể tạo ra động 
lực bên trong của sự học tập, khuyến khích tư duy độc lập, sáng tạo phê phán, sự 
hợp tác và kĩ năng giao tiếp.
 Nhằm thực hiện việc đổi mới phương pháp dạy học phát huy tính tích cực chủ 
động của học sinh, những năm gần đây các Trường phổ thông đã chú ý đến việc đổi 
mới soạn giảng ở giáo viên và tổ chức học tập ở học sinh, trong đó coi trọng vị trí 
và vai trò của học sinh: Vừa là đối tượng vừa là chủ thể. Thông qua quá trình học 
tập, dưới sự chỉ đạo của giáo viên học sinh phải tích cực, chủ động cải biên chính 
mình.
 Đặc điểm của dạy học phát triển năng lực: Lấy học sinh làm trung tâm
 Dạy học lấy học sinh làm trung tâm được xem là phương pháp đáp ứng yêu 
cầu cơ bản của mục tiêu giáo dục, đòi hỏi người học là chủ thể của hoạt động học, 
họ phải tự học, tự nghiên cứu để tìm ra kiến thức bằng hành động của chính mình, 
người học không chỉ được đặt trước những kiến thức có sẵn ở trong bài giảng của 
giáo viên mà phải tự đặt mình vào tình huống có vấn đề của thực tiễn, từ đó tự 
mình tìm ra cái chưa biết, cái cần khám phá, học để hành, hành để học, tức là tìm 
kiếm kiến thức cho bản thân.
 Còn người dạy chỉ là người tổ chức và hướng dẫn quá trình học tập, đạo diễn 
cho người học tự tìm kiếm kiến thức và phương thức tìm kiếm kiến thức bằng hoạt 
động của chính mình. 
 Quan hệ giữa người dạy và người học được thực hiện dựa trên cơ sở tin cậy và 
hợp tác với nhau. Trong quá trình tìm kiếm kiến thức của người học có thể chưa 
chính xác, chưa khoa học, người học có thể căn cứ vào kết luận của nguời dạy để tự 
kiểm tra, đánh giá rút kinh nghiệm về cách học của mình.
 Văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn THCS mang nội dung “gần 
gũi, bức thiết đối với cuộc sống trước mắt của con người và cộng đồngtrong xã hội 
hiện đại” hướng người đọc tới những vấn đề thời sự hằng ngày mà mỗi cá nhân 
cộng đồng đều quan tâm như môi trường, dân số, quyền trẻ em ... do đó những văn 
 Lưu Thị Hiền Phương – THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana- Đắk Lắk 3 Một số kinh nghiệm phát triển năng lực học sinh qua giảng dạy văn bản nhật dụng Ngữ văn 7 tại 
 trường THCS Lương Thế Vinh – Krông Ana- Đắk Lắk
 Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ môn Ngữ văn 7 tôi cảm thấy rất trăn 
trở về điều nay làm thế nào để có được một tiết dạy hay làm cho học sinh không 
quay lưng lại với bộ môn, thắp lên ngọn lửa đam mê bộ môn Ngữ văn trong học 
sinh, kết nối giữa kiến thức văn chương với đời sống để học sinh nhìn nhận ra mục 
đích của việc học bộ môn mình giảng dạy, làm thế nào để qua việc giảng dạy Ngữ 
văn của mình có thể hình thành những phẩm chất năng lực cho các em giúp các em 
có thể tự tin và linh hoạt giải quyết những tình huống có vấn đề trong đời sống. 
Chính những trăn trở này đã thôi thúc tôi phải tìm kiếm những giải pháp để nâng 
cao chất lượng giảng dạy và phát triển những phẩm chất năng lực của người học từ 
những văn bản nhật dụng của chương trình ngữ văn 7. Đây cũng là lí do tôi chọn đề 
tài này để nghiên cứu
 III. Các giải pháp đã tiến hành để giảo quyết vấn đề 
 Nhằm giúp giáo viên có được cách tổ chức dạy học phần văn bản nhật dụng 
Ngữ văn 7 theo định hướng phát triển năng lực để đạt được mục đích kích thích ở 
học sinh khả năng tư duy, tìm tòi và liên hệ vấn đề với thực tiễn đời sống. Tôi xin 
nêu một số giải pháp được đúc kết từ chính kinh nghiệm giảng dạy của tôi, khi vận 
dụng những giải pháp sau đây tôi nhận thấy một sự thay đổi khá rõ về thái độ, tinh 
thần của học sinh đối với việc học văn bản nhật dụng. Giải pháp cụ thể như sau:
Giải pháp1. Làm tốt khâu chuẩn bị cho bài dạy.
 - Chuẩn bị kiến thức dạy học
 Vì mục tiêu của các bài học văn bản nhật dụng là giúp học sinh có vốn hiểu 
biết vấn đề lớn về đời sống như giáo dục, môi trường, xã hội ... từ đó tăng cường ý 
thức công dân của các em nên việc chuẩn bị kiến thức hỗ trợ cho bài học văn bản 
nhật dụng mang một ý nghĩa tích hợp rộng hơn đòi hỏi sự quan tâm nhiều hơn của 
cả thầy và trò. Giáo viên phải làm tốt khâu thiết kế giáo án bằng việc nghiên cứu 
nội dung sgk và tư liệu từ các kênh thông tin , đồng thời trước mỗi bài học giáo 
viên phải có kế hoạch giao nhiệm vụ cho học sinh như thu thập, sưu tầm tư liệu 
phục vụ cho bài học sắp tới.
 Ví dụ: Trước khi dạy văn bản “ Sài Gòn tôi yêu” giáo viên nghiên cứu kĩ kiến 
thức về địa lí, tự nhiên, con người Sài Gòn. Với sự nghiên cứu kiến thức kĩ như vậy 
giáo viên có thể giúp học sinh hiểu rộng, hiểu đúng về Sài Gòn.
 Giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh tự tìm hiểu về địa danh này bằng sự gợi 
ý về các kênh thông tin để lấy tư liệu, tài liêu, thông tin. 
 Trong tiết dạy giáo viên yêu cầu học sinh thuyết trình, học sinh đại diện trình 
bày, các học sinh khác bổ sung hoàn chỉnh.
 Với cách thức này tôi nhận thấy tiết học khá sinh động, các em thuyết trình vấn 
đề rất tự tin, rất chủ động, diễn đạt rõ ràng, dễ hiểu
 Lưu Thị Hiền Phương – THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana- Đắk Lắk 5 Một số kinh nghiệm phát triển năng lực học sinh qua giảng dạy văn bản nhật dụng Ngữ văn 7 tại 
 trường THCS Lương Thế Vinh – Krông Ana- Đắk Lắk
giáo viên. Lưu ý giáo viên đề ra những câu hỏi để giải mã ô chữ không được quá 
khó vì sẽ làm mất nhiều thời gian và tạo cho học sinh cảm giác bức bí dễ bỏ cuộc.
 Khi tổ chức trò chơi giải mã ô chữ giáo viên sẽ huy động được sự hợp tác của 
tất cả đối tượng học sinh, học sinh trao đổi, thảo luận, thi đua, động não, kết nối với 
thực tế đời sống... để giải mã. Qua đây các em sẽ phát triển năng lực giải quyết vấn 
đề, năng lực hợp tác, năng lực kết nối
 Nội dung câu hỏi để giải mã ô chữ thì phần trả lời của nó phải liên quan đến 
chủ đề của bài học.Từ việc học sinh giải mã được từ khóa của ô chữ giáo viên giới 
thiệu bài 
 Khởi động bài học theo kiểu kết hợp trình chiếu hình ảnh nêu tinh huống 
có vấn đề: 
 Giáo viên trình chiếu những hình ảnh và clíp liên quan đến vấn đề nhật dụng 
của văn bản sau đó giáo viên đưa ra nhưng tình huống có vấn đề để học sinh giải 
quyết trên cở đó giáo viên dẫn vào bài. 
 - Khi dạy bài “ Cuộc chia tay của những con búp bê” giáo viên có thể nêu vấn 
đề như sau: Trong cuộc sống, trên báo đài và nhiều kênh thông tin , em đã từng 
chứng kiến về hoàn cảnh những bạn nhỏ thiếu tình yêu thương của người cha, 
người mẹ vì những lí do khác nhau. Em cảm thấy như thế nào về điều này? 
 Cách thức giới thiệu bài mới này đã tạo cơ hội cho học sinh bộc lộ những quan 
điểm của cá nhân bằng khả năng diễn đạt, thuyết trình trước lớp của mình từ đây 
học sinh sẽ tự tin hơn trong giao tiếp, các em sẽ biết kết nối vấn đề đời sống để giải 
quyết 
 Tóm lại có nhiều cách vào bài khác nhau để phát huy năng lực của học sinh tuy 
nhiên để có phần vào bài hiệu quả, hấp dẫn giáo viên phải không ngừng tìm tòi, 
trau dồi vốn hiểu biết của mình về những vấn đề nhật dụng của văn bản.
 b. Tổ chức giờ dạy bằng sự kết hợp linh hoạt nhiều phương pháp 
 + Phương pháp thuyết trình: giáo viên tăng cường phương pháp thuyết trình 
giải quyết vấn đề : trong quá trình giảng dạy nội dung bài dạy giáo viên nêu vấn đề 
vạch những mâu thuẫn trong nhận thức. Người học luôn luôn được đặt trong tình 
huống có vấn đề, nên có thói quen suy nghĩa logic, biết cách phân biệt vấn đề và 
giải quyết vấn đề. 
 Ví dụ, với phương pháp thuyết trình của học sinh, ở văn bản "Ca Huế trên sông 
Hương", giáo viên yêu cầu học sinh tìm hiểu ở nhà những hiểu biết của mình về 
Huế và ca Huế, khuyến khích những cách tìm hiểu có sự hỗ trợ của công nghệ 
thông tin. 
 Trong quá trình giảng dạy phần đọc hiểu văn bản giáo viên tổ chức cho học 
sinh thuyết trình nội dung đã được chuẩn bị sau đó các học sinh khác bổ sung để 
 Lưu Thị Hiền Phương – THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana- Đắk Lắk 7 Một số kinh nghiệm phát triển năng lực học sinh qua giảng dạy văn bản nhật dụng Ngữ văn 7 tại 
 trường THCS Lương Thế Vinh – Krông Ana- Đắk Lắk
 Sử dụng phương pháp này ở tất cả các khâu tổ chức dạy học, học sinh có cơ 
hội được trình bày hiểu biết của mình, nói lên tiếng nói suy nghĩ của cá nhân mình 
từ đó có thể hiểu được những ý nghĩa thiết thực mà các văn bản nhật dụng, mang 
lại, phát triển năng lực hợp tác và năng lực ngôn ngữ, năng lực kết nối
 Cùng với đó, sử dụng các mẩu chuyện, dẫn chứng mang tính thực tế, lịch 
sử (áp dụng tùy vào nội dung từng bài), để kích thích gây tò mò, hứng thú, say mê 
cho học sinh. Giúp học sinh hiểu bài dễ hơn, nhanh hơn qua phần giới thiệu bài và 
liên hệ ngay từng phần của bài học. 
 Để đạt được những yêu cầu, kết quả đó, giáo viên phải luôn luôn tìm tòi, 
lắng nghe, nắm bắt thông tin cập nhật (liên quan đến nội từng văn bản nhật dụng) 
qua đài, trên báo chí, qua thông tin mạng, qua tình hình thời sự trong 
nước,quốctế,để vận dụng vào bài giảng. 
 + Phương pháp đóng vai: 
 Giáo viên tổ chức cho học sinh hoạt động theo nhóm, đóng vai nhân vật 
trong tác phẩm tự sự, kịch hoặc xử lý một tình huống giao tiếp giả định. 
 Để tổ chức hoạt động này giáo viên gợi ý cho học sinh chọn nội dung phù 
hợp, xây dựng một đoạn kịch bản và thực hiện đóng vai. Hoạt động này phải mất 
nhiều thời gian do vậy giáo viên giao nhiệm vụ cho các nhóm học sinh để các em 
tự tập luyện ở nhà, trên lớp sẽ kết hợp thực hiện trong giờ hoạt động ngữ văn. 
Phương pháp đóng vai sẽ giúp học sinh tự chủ trong giải quyết vấn đề, kích thích 
sự sáng tạo, phát triển năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác ở học sinh. Kể cả những 
học sinh yếu, học sinh dân tộc thiểu số cùng có điều kiện, cơ hội để thể hiện những 
phẩm chất năng lực, đưa ra những quan điểm, ý kiến cá nhân của mình về những 
vấn đề mình quan tâm, vấn đề mang màu sắc địa phương, bản sắc văn hóa dân tộc.
 Ví dụ: Khi dạy văn bản “Cuộc chia tay của những con búp bê” giáo viên có 
thể yêu cầu học sinh hoạt động nhóm đóng vai nhân vật xây dựng vở kịch chuyển 
thể từ nội dung của văn bản. 
 - Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm tương ứng với 4 tổ, mỗi tổ sẽ chọn bất cứ 
tình huống nào trong văn bản để xây dựng thành kịch nhưng yêu cầu vở kịch phải 
thể hiện được chủ đề nhật dụng của văn bản.
 - Đến tiết trải nghiệm sáng tạo học sinh sẽ thể hiện vở kịch này.
 - Giáo viên uốn nắn những điểm chưa được của học sinh khi các em thể hiện 
xong các sản phẩm của nhóm. 
 Ở phương pháp này, tôi nhận thấy học sinh của mình rất hào hứng, các em đã 
biết tự lựa chọn những nội dung trọng tâm của bài để chuyển thể thành kịch bản, 
các em cũng biết kết nối với thực tế đời sống để đưa vào sán phẩm của nhóm.
 Lưu Thị Hiền Phương – THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana- Đắk Lắk 9

File đính kèm:

  • docskkn_mot_so_kinh_nghiem_dinh_huong_phat_trien_nang_luc_hoc_s.doc