SKKN Một số phương pháp dạy học tích cực nâng cao chất lượng giảng dạy phần ca dao - Dân ca ở bậc Trung học cơ sở
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số phương pháp dạy học tích cực nâng cao chất lượng giảng dạy phần ca dao - Dân ca ở bậc Trung học cơ sở", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số phương pháp dạy học tích cực nâng cao chất lượng giảng dạy phần ca dao - Dân ca ở bậc Trung học cơ sở
I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chon đề tài. Hoài Thanh đã từng viết: “Từ bao đời đến bây giờ, từ Homerơ đến Kinh Thi, đến ca dao Việt Nam, thơ ca có một sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại, nó ra đời từ những vui buồn của đời người và sẽ làm bạn với con người cho đến ngày tận thế”. Kể từ khi con người vươn mình khỏi bóng tối nguyên thủy, mở rộng tâm hồn để đón nhận những vang vọng của đất trời, để trái tim mình cất lên những xúc cảm buồn vui, yêu ghét thì ca dao - dân ca, những câu thơ, khúc nhạc đầu tiên của nhân loại, đã nảy sinh bầu bạn với con người như tri âm, tri kỷ. Ca dao - dân ca đã chiếm một phần quan trọng không thể thay thế trong đời sống sinh hoạt, cũng như đời sống tinh thần của người Việt, trở thành một mảnh ghép của hồn Việt, một mảnh ghép cổ xưa, chân thành, mộc mạc mà sâu sắc, dạt dào. Chính vì tầm quan trọng của ca dao - dân ca (một thể loại của văn học dân gian) đối với cội nguồn văn hóa dân tộc nói chung và văn học Việt Nam nói riêng, mà việc đưa nó vào chương trình giảng dạy bậc Trung học cơ sở là một điều rất hợp lý. Môn Văn trong trường bậc Trung học cơ sở chia làm 3 phần môn: + Văn bản + Tiếng việt + Tập làm văn. Trong đó phần ca dao - dân ca được phân phối ở lớp 7 (phần đầu của phân môn Văn bản học kỳ I). Tuy nhiên, một thực tế trong quá trình giảng dạy, phần ca dao - dân ca hiện nay không ít giáo viên còn loay hoay, lúng túng, làm như thế nào để nâng cao hiệu quả chất lượng ở mỗi tiết dạy. Không ít những giờ dạy ca dao - dân ca diễn ra khá bài bản. Giáo viên và học sinh đã đi đúng một quy trình (theo trình tự các đề mục) mà chưa hài lòng. Có một cái gì đó sâu thẳm, lớn lao ở một số văn bản ca dao - dân ca, mà cả người dạy và người học chưa đi đến “cái đích cuối cùng”, chưa khơi được “tầng ngầm” giá trị ẩn chứa bên trong ca dao - dân ca. Nguyên nhân chính là người dạy và cả người học chưa nắm kỹ đặc trưng thể loại “chính danh” của ca dao - dân ca. Thể loại văn học dân gian này có đặc điểm thi pháp riêng. Từ đó chưa đưa ra những phương pháp tích cực trong quá trình giảng dạy và học tập. 1 3. Đối tượng nghiên cứu: - Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những phương pháp dạy học tích cực nhằm nâng cao chất lượng dạy và học phần ca dao - dân ca ở bậc Trung học cơ sở - Trường THCS Nguyễn Trường Tộ - Thị xã Buôn Hồ - Tỉnh Đăk Lăk. 4. Giới hạn của đề tài: Phân phối chương trình Trung học cơ sở ban hành năm 2002, phần nội dung quy định phần văn bản ca dao - dân ca chỉ học 4 tiết ở lớp 7, còn một số câu ca dao - dân ca chỉ tích hợp ở các nhà thơ, nhà văn vận dụng trong tác phẩm văn học và phân phối rải rác ở các khối 6, 7, 8, 9. Do điều kiện và thời gian nên trong đề tài này, tôi chỉ đề cập đến nội dung phần ca dao - dân ca trong sách giáo khoa Ngữ văn 7 tập 1. 5. Phương pháp nghiên cứu: Để tiến hành nghiên cứu đề tài, tôi sử dụng một số phương pháp sau: - Kinh nghiệm thực tế của bản thân trong quá trình giảng dạy. - Phương pháp nghiên cứu tài liệu bổ trợ. - Phương pháp quan sát, so sánh đối chiếu. - Phương pháp tọa đàm, thao giảng, trao đổi ý kiến với đồng nghiệp trong quá trình giảng dạy. - Phương pháp tổng hợp những kinh nghiệm, phương pháp mới trên lớp học. - Phương pháp đánh giá kết quả bước đầu và điều chỉnh bổ sung. - Phương pháp kiểm tra, đánh giá. - Phương pháp thống kê tài liệu, kết quả 3 Một số học sinh khác vì lười học, chán học nên không chuẩn bị tốt tâm thế cho giờ học văn. Văn là phải cảm thụ mới thấy được cái hay của văn chương nghệ thuật. Thế nhưng nhiều em ngồi học mà tâm hồn cứ “treo ngược cành cây”. Nhiều em đối với giờ văn tỏ ra chán nản, không muốn học, thậm chí buồn ngủ vànằm ngủ trên bàn! Trong khi đó, văn học là một bộ môn nghệ thuật sáng tạo ngôn ngữ đầy giá trị. Có thể coi một câu ca dao hay một bài dân ca là một viên ngọc mà ông cha đã để lại cho con cháu đời sau. Nó bay bổng, tạo nên những khúc nhạc làm cho cuộc sống đời thường thêm chất thơ. Vậy làm thế nào để cho học sinh mình cảm nhận được chất thơ của cuộc sống đời thường, tâm tình của ông cha thủa trước gửi gắm trong ca dao- dân ca? Tôi nghĩ đó là một việc làm mà mọi thầy cô giáo đang tìm cách đi nhẹ nhàng nhất và có hiệu quả nhất cho riêng mình. Nhìn nhận vấn đề một cách cụ thể hơn chúng ta thấy rằng, đối với học sinh lớp 7, tuy duy ở lứa tuổi của các em còn hạn chế, cảm nhận của các em còn đơn giản, vốn sống, vốn từ còn ít ỏi. Mà ca dao – dân ca lại là tiếng nói vừa nhuần nhị vừa sâu sắc của nhân dân ta. Từ những cơ sở trên, tôi thiết nghĩ: đưa ra một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học phần ca dao – dân ca ở bậc Trung học cơ sở là một việc làm thiết thực. Đồng thời cho ta thấy được vai trò, sự cần thiết của giáo viên trong việc định hướng, rèn luyện kĩ năng cảm thụ tác phẩm văn học cho học sinh. 2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu. Về phía học sinh: Ca dao - dân ca là tiếng nói tâm tình của người dân lao động. Nó sản sinh từ chính nhân dân cho nên khá gần gũi với mọi người. Các em không chỉ được tiếp cận, tìm hiểu trong chương trình học mà còn thông qua gia đình (bố mẹ, ông bà), thông qua cuộc sống giao tiếp, lời ăn tiếng nói hằng ngày. Tuy nhiên qua giảng dạy phần ca dao - dân ca ở chương trình văn bản lớp 7 nhiều năm, tôi nhận thấy kỹ năng cảm thụ, phân tích ca dao (một loại thơ dân gian với những đặc trưng riêng về thi pháp) còn hạn chế, hời hợt. Mặt khác, các em còn chưa thực sự yêu thích, say mê ca dao - dân ca. Bởi sự phát triển của xã hội, nhiều loại hình nghệ thuật mới ra đời lôi cuốn, hấp dẫn thị hiếu các em. Hơn nữa vì chưa hiểu sâu sắc cái đẹp của ca dao - dân ca khiến các em có phần chưa quan tâm đúng mức. 5 Năm học 2015-2016 Lớp Sĩ số Điểm dưới TB Điểm TB Điểm khá Điểm giỏi 7A4 30 7 14 7 2 7A5 31 9 13 8 1 Trước thực trạng, trên bản thân tôi luôn trăn trở, trao đổi với các đồng nghiệp nhằm tìm ra những phương pháp dạy học tích cực nhằm giúp giáo viên bộ môn Ngữ văn Trung học cơ sở có thể nâng cao hiệu quả chất lượng dạy – học phần ca dao – dân ca. Góp phần thúc đẩy chất lượng chung của nền giáo dục nước nhà đi lên. Đáp ứng nhu cầu bức thiết của toàn nghành Giáo dục là xây dựng nguồn tài nguyên giáo dục mở. 3. Nội dung và hình thức của giải pháp. a. Mục tiêu của giải pháp. Hướng dẫn đầy đủ, chi tiết, rõ ràng, cụ thể theo trình tự, dễ hiểu theo nội dung thực hiện các giải pháp, biện pháp. Các bước thực hiện giải pháp, biện pháp được minh họa cụ thể theo từng nội dung sát thực với đặc thù bộ môn Ngữ văn mà cụ thể là phần ca dao – dân ca ở bậc THCS. Từ đó giáo viên bộ môn Ngữ văn THCS dễ dàng vận dụng, áp dụng thực hiện có hiệu quả ở phần dạy và học phần ca dao – dân ca. b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp. • Nội dung các giải pháp, biện pháp. ♦ Đối với giáo viên. ♦ Đối với học sinh. Trong đề tài này, tôi lồng ghép, trình bày một cách cụ thể nội dung các giải pháp, biện pháp nhằm diễn giải đầy đủ các nội dung thông qua cách thức thực hiện • Cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp. Từ những trạng của vấn đề trên cũng như những cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp thực hiện cho đề tài nghiên cứu. Cố thủ Tướng Phạm Văn Đồng từng đánh giá rất cao lứa tuổi học sinh trong nhà trường như sau “Lứa tuổi 7 đến 17 là rất nhạy cảm, thông minh lạ lùng lắm”. Từ thực tế giảng dạy, tôi mạnh dạn đưa ra một số phương pháp dạy học tích cực nâng cao chất lượng giảng 7 (1) Đồng dao (2) Dân ca lao động (3) Dân ca nghi lễ (4) Hát ru (5) Dân ca trữ tình (6) Dân ca trong kịch hát dân gian - Ca dao (1) Ca dao trẻ em (2) Ca dao lao động (3) Ca dao nghi lễ phong tục (4) Ca dao ru con (5) Ca dao trữ tình (6) Ca dao trào phúng Trong nhà trường THCS – THPT chủ yếu học sinh được học phần lời ca (tức là ca dao) nên đề tài này tôi chủ yếu đề cập đến ca dao. * Đặc trưng của ca dao – dân ca: - Hệ đề tài Vì là phần lời của những câu hát dân gian nên ca dao thiên về tình cảm và biểu hiện lòng người, phản ánh tâm tư, tình cảm, thế giới tâm hồn của con người. Thực tại khách quan được phản ánh thông qua tâm trạng con người, nó thể hiện vẻ đẹp trang trọng ngay trong đời sống đời thường con người. - Chức năng Ca dao – dân ca là “tấm gương của tâm hồn dân tộc” là “một trong những dòng chính của thơ ca trữ tình” (F. Hê ghen). - Đặc điểm thi pháp Ngôn ngữ trong ca dao Nói đến thi pháp ca dao, trước hết phải nói đến phương tiện chủ yếu của ca dao, tức là ngôn ngữ. Bởi vì ca dao là phần lời của dân ca, cái yếu tố nhạc điệu, động tác, có vai trò rất quan trọng trong dân ca, còn ở phần lời thơ thì vai trò chủ yếu thuộc về ngôn ngữ, các yếu tố khác đều trở thành thứ yếu. Chính vì vậy mà ca dao có khả năng 9 - Thể cách của ca dao “Phú”, “tỉ” , “hứng” là ba thể cách của ca dao (cách phô diễn ý tình). + “Phú” ở đây có nghĩa là phô bày, diễn tả một cách trực tiếp, không qua sự so sánh. Ví dụ: Cậu cai nón dấu lông gà, Ngon tay đeo nhẫn gọi là cậu cai Ba năm được một chuyến sai, Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê. + “Tỉ” nghĩa là so sánh (bao gồm cả so sánh trực tiếp – tỉ dụ và so sánh gián tiếp - ẩn dụ) Ví dụ: Thân em như trái bần trôi, Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu? + “Hứng” là cảm hứng. Người xưa có câu “Đối cảnh sinh tình”. Những bài ca dao trước nói đến “cảnh’ (bao gồm cả cảnh vật, sự việc) sau mới bộc lộ “tình” (tình cảm, ý nghĩa, tâm sự) đều được coi là làm theo thể “hứng” Ví dụ: Ngó lên nuộc lạt mái nhà, * Thời gian và không gian trong ca dao - Thời gian: Thời gian trong ca dao vừa là thời gian thực tại khách quan, vừa là thời gian của tưởng tượng, hư cấu mang tính chất chủ quan của tác giả. Ca dao có rất nhiều câu mở đầu bằng hai tiếng “Chiều chiều”, “Chiều chiều xách giỏ hái rau”, “Chiều chiều ra đứng bờ sông”, “Chiều chiều lại nhớ chiều chiều”. “Chiều chiều” có nghĩa là chiều nào cũng vậy, sự việc diễn ra lặp đi lặp lại. Ngoài ra thời gian trong ca dao còn sử dụng hàng loạt những trạng ngữ (hay cụm từ) chỉ thời gian như: “bây giờ”, “tối qua’, “đêm đêm”, thì ai cũng hiểu là người nói đang ở thời điểm hiện tại để nhớ lại và nhắc lại chuyện vừa xảy ra chưa lâu. Nhìn chung thời gian trong ca dao trữ tình là thời gian nghệ thuật mang tính tượng trưng, phiếm 11 - Yêu nhau như thể chân tay Anh em hòa thuận, hai thân vui vầy. - Công cha như núi ngất trời Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển đông. - Còn ẩn dụ (so sánh ngầm) thì không những không có quan hệ từ so sánh mà đối tượng so sánh cũng được ẩn đi, chỉ còn vế là phương tiện so sánh (ở đây đối tượng và phương tiện so sánh hòa nhập làm một). Do vậy mà hình thức ẩn dụ hàm súc hơn. Ví dụ bài ca dao sau là tập hợp bốn hình ảnh ẩn dụ, mỗi hình ảnh ám chỉ một cảnh ngộ đáng thương của người lao động: Thương thay thân phận con tằm, Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ Thương thay lũ kiến tí ti Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi Thương thay hạc lánh đường mây Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi. Thương thay con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có người nào nghe. Đặc biệt ẩn dụ gắn rất chặt với nghệ thuật nhân hóa, dùng thế giới loài vật để nói thế giới loài người. Ví dụ bài ca dao dưới đây mỗi con vật tượng trung cho một loại người, hạng người trong xã hội xưa: Con cò chết rũ trên cây Cò con mở lịch xem ngày làm ma, Cà cuống uống rượu là đà, Chim ri ríu rít bò ra lấy phần. Chào mào thì đánh trống quân, Chim chích cởi trần vác mỏ đi giao. - Biện pháp nghệ thuật đối xứng (đối ý, đối từ): Ví dụ: Số cô chẳng giàu thì nghèo 13
File đính kèm:
- skkn_mot_so_phuong_phap_day_hoc_tich_cuc_nang_cao_chat_luong.doc